Những năm gần
đây, việc xây dựng các mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp được các cấp
ngành, địa phương tỉnh Lai Châu quan tâm thực hiện. Từ đó, hình thành các
chuỗi sản xuất, mang lại giá trị kinh tế cao góp phần bảo đảm đầu ra cho sản phẩm
cũng như thu nhập cho người dân.
Với lợi thế về đất đai, diện tích tự nhiên hơn 906.878ha, trong
đó 526.533,58ha đất nông nghiệp, chiếm 58% diện tích tự nhiên của tỉnh Lai
Châu, khí hậu thuận lợi rất thích hợp để phát triển đa dạng các loại cây trồng,
vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Phát huy những lợi thế có sẵn, các địa phương
của tỉnh Lai Châu đang
đẩy mạnh quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, đưa các giống mới có
năng suất, chất lượng cao, đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn vào sản xuất để thu
hút doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX), hộ sản xuất tham gia đầu tư, liên kết sản
xuất. Đến nay, đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung tại các huyện: Than
Uyên, Tân Uyên, Phong Thổ, thành phố Lai Châu và một số trang trại, chăn nuôi
gia súc, gia cầm quy mô lớn có liên kết sản xuất tiêu thụ theo chuỗi với các
doanh nghiệp.
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trên
địa bàn tỉnh Lai Châu đã
hình thành trên 2.000ha lúa đặc sản địa phương như: séng cù, tẻ râu, nếp tan co
giàng… Cùng với đó, cây chè được mở rộng theo hướng gắn với các nhà máy chế
biến, tạo ra sản phẩm có giá trị thương mại cao. Hiện toàn tỉnh có 7.775ha,
diện tích chè kinh doanh 4.705ha, chủ yếu là chè kim tuyên, PH8. Nhận thức của
người trồng chè chuyển biến rõ nét, chú trọng đầu tư thâm canh, liên kết sản
xuất với các doanh nghiệp chế biến, thu nhập của người trồng chè ngày càng ổn
định. Các công ty, HTX không ngừng đổi mới dây chuyền, công nghệ chế biến tạo
ra các sản phẩm chè có chất lượng: Sencha, Mátcha…
Ngoài ra, các mô hình sản xuất theo chuỗi liên kết gắn sản xuất
với bao tiêu sản phẩm đạt được nhiều tín hiệu tích cực. Tiêu biểu như mô hình
sản xuất, cung ứng rau thủy canh, mô hình trồng hoa ở xã San Thàng (thành phố
Lai Châu); mô hình trồng chanh leo của huyện Tân Uyên; mô hình nuôi cá lồng
trên lòng hồ ở huyện Than Uyên, Tân Uyên, Mường Tè, Nậm Nhùn… Các mô hình đã
tạo nguồn thu nhập đáng kể cho người dân và cung ứng cho cửa hàng thực phẩm
trong và ngoài tỉnh; quá trình tổ chức sản xuất được các thành viên Hợp tác xã,
người dân thực hiện theo đúng quy trình và có sự bàn bạc, thống nhất cũng như
thực hiện đúng hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, chăn nuôi.
Điển hình như HTX Thanh Xuân (xã Mường Cang, huyện Than Uyên)
đang liên kết bao tiêu sản phẩm lúa séng cù cho nông dân trên địa bàn huyện.
Được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2009, sau hơn chục năm hoạt động, đến
nay HTX có 12 thành viên với tổng vốn điều lệ 5 tỷ đồng. Được huyện giao quản
lý và duy trì thương hiệu gạo séng cù, HTX đã ký kết với hơn 200 hộ dân 2 xã
Hua Nà và Mường Cang sản xuất trên 30ha giống lúa séng cù. Trung bình mỗi năm,
HTX thu mua, chế biến và xuất bán ra thị trường hơn 300 tấn gạo, doanh thu hơn
2,8 tỷ đồng.
Chị Lò Thị Thặm (bản Hua Nà, xã Hua Nà, huyện Than Uyên) chia
sẻ: “Gia đình tôi thực hiện liên kết với HTX Thanh Xuân với diện tích trên
2.000m2 trồng lúa séng cù. Trước đây, cứ đến vụ thu hoạch lúa bà con trong xã
lo lắng sợ xảy ra tình trạng được mùa mất giá. Giờ bà con yên tâm phát triển,
mở rộng diện tích lúa séng cù vì được HTX Thanh Xuân bao tiêu sản phẩm với giá
cả hợp lý, ổn định. Ngoài ra, hàng năm HTX còn hướng dẫn bà con kỹ thuật bảo
quản thóc sau thu hoạch, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất”.
Thành
viên HTX Thanh Xuân (xã Mường Cang, huyện Than Uyên) đóng gói sản phẩm gạo séng
cù
Tuy nhiên, hiện nay việc xây dựng các chuỗi liên kết sản xuất,
cung ứng nông sản của tỉnh còn nhiều hạn chế, sản phẩm làm ra còn manh mún,
chất lượng chưa cao. Liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp và nhà phân phối
trong sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm còn lỏng lẻo, sản phẩm chưa tiêu thụ
được nhiều. Nguyên nhân là do quy mô sản xuất nông nghiệp của tỉnh còn nhỏ lẻ,
manh mún nên trong quá trình tổ chức triển khai, ký hợp đồng cung ứng vật tư
đầu vào, bao tiêu hàng hóa đầu ra với quy mô lớn còn gặp nhiều khó khăn đặc
biệt đối với các xã vùng sâu, vùng xa, biên giới.
Để giải quyết bài toán khó này, tháng 8/2019, tỉnh Lai Châu ban
hành chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên
địa bàn tỉnh về trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp. Theo đó, nông dân,
chủ trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp sẽ được hưởng chính sách với ưu đãi hỗ
trợ như: chi phí tư vấn xây dựng liên kết, hạ tầng phục vụ liên kết, đào tạo
tập huấn… Theo chính sách hỗ trợ của tỉnh, về hạ tầng phục vụ liên kết được
ngân sách Nhà nước hỗ trợ một lần 30% vốn đầu tư máy móc trang thiết bị và xây
dựng nhà xưởng, kho sơ chế, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Mức hỗ trợ
được cấp thẩm quyền phê duyệt không quá 10 tỷ đồng/dự án. HTX nông nghiệp tham
gia chuỗi liên kết gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp còn được hỗ trợ một
lần tối đa 100 triệu đồng/1 nội dung/1 hợp tác xã… Ngoài ra, tỉnh tập trung đầu
tư cơ sở hạ tầng sản xuất nông nghiệp để hình thành các vùng sản xuất hàng hóa
tập trung theo thế mạnh của địa phương gắn với đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất góp phần tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường.
Trao đổi với chúng tôi ông Đặng Văn Châu - Giám đốc Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lai
Châu khẳng định: “Sản xuất theo chuỗi liên kết giúp nông dân
bao tiêu được sản phẩm, nâng cao thu nhập hướng tới phát triển nông nghiệp bền
vững. Vì vậy, việc tỉnh ban hành chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp sẽ khuyến khích doanh nghiệp, HTX, cá nhân, tổ chức
tham gia. Cùng với đó, hiện nay chúng tôi vận động các huyện, thành phố làm tốt
Chương trình “Mỗi địa phương một sản phẩm” (OCOP), trước mắt tập trung 9 sản
phẩm được UBND tỉnh phê duyệt: gạo tẻ râu, rượu ngô truyền thống, quả mắc-ca
khô, chè… Qua đó, sẽ tạo dựng được các thương hiệu nông sản cho bà con, thúc
đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng liên kết, phát triển bền vững”.
Theo báo Lai Châu